Đời Tây Tấn Tuân_Úc_(nhà_Tấn)

Nắm chức Trung thư giám

Tấn Vũ đế lên ngôi năm 265, đổi phong Úc làm Tế Bắc quận công. Úc thấy Dương Hỗ từ chối, nên cũng cố xin chỉ nhận tước hầu. Được bái làm Trung thư giám, gia Thị trung, lãnh Trước tác, cùng Giả Sung tham gia chế định luật lệnh.

Sau khi xúc tiến cuộc hôn nhân giữa thái tử Tư Mã Trung và con gái Giả Sung là Giả Nam Phong (271), Úc được tiến vị Quang lộc đại phu, rồi lãnh Bí thư giám.

Đầu niên hiệu Hàm Ninh (275 – 280), Úc cùng bọn Thạch Bao đều là tá mệnh công thần, triều đình liệt vào danh sách sẽ được cúng tế. Tháng 4 AL năm Thái Khang đầu tiên (280), Tấn đã diệt Ngô, Vũ đế cho rằng Úc có công biên soạn chiếu mệnh, cho một con trai của ông làm đình hầu, thực ấp 1000 hộ, ban 1000 xúc lụa; lại phong một cháu nội của ông là Tuân Hiển làm Dĩnh Dương đình hầu.

Khi triều đình nghị luận việc các vương công trở về phong quốc, Vũ đế hỏi Úc, ông trình bày những bất cập về chánh sự, quân sự bởi những thay đổi do các vương công gây ra tại phong quốc, từ đó kiến nghị vài biện pháp chế tài trong việc nhiệm dụng nhân sự quân đội, thay đổi cương vực đại lý tại phong quốc. Vũ đế cho rằng lời của ông là thành thực, nên phần nhiều nghe theo. Những biện pháp này tương đối mềm mỏng, theo lời Úc là “có thể tùy nghi tiết độ”; sử cũ không nói rõ chúng đã đem lại kết quả tích cực hay không?

Cuối năm Hàm Ninh thứ 5 (279), triều đình nghị luận việc cắt giảm chi phí công, Phó Hàm kiến nghị tinh giản một nửa số quan lại ở châu huyện, Úc phản bác vì cho rằng thời Hán Quang Vũ đế và niên hiệu Chánh Thủy thời Tào Ngụy Phế đế đã tinh giản quan lại, nay việc cần làm là tinh giản công tác hành chánh.

Trong những năm Thái Khang (280 – 289), Vũ đế hạ chiếu lấy Úc làm Quang lộc đại phu, Nghi đồng tam tư, Khai phủ tích triệu [4], giữ Trung thư giám, Thị trung, Hầu tước như cũ.

Mùa thu năm thứ 4 (283), các châu quận có lụt, Duyện Châu thiệt hại rất nặng, Úc kiến nghị đặt chức Đô thủy sứ giả. Sau Vũ đế lấy Môn hạ khải thông sự lệnh sử Y Tiện, Triệu Hàm làm Cung trung xá nhân, sai họ chưởng quản pháp lệnh, Úc cho rằng như thế là đặt thêm quan chức quản lý pháp lệnh, gây nhiễu loạn các cơ quan khác.

Thăng chức Thượng thư lệnh

Úc được thăng làm Thượng thư lệnh, tiến hành sát hạch các lệnh sử dưới quyền, ai không thông thuộc pháp lệnh thì lập tức bị đuổi ra ngoài. Vũ đế từng nói: “Ngụy Vũ đế (tức Tào Tháo) nói ‘Tuân Văn Nhược tiến người giỏi, không được không ngừng; nay Tuân công lui kẻ dở, không được không thôi’. Mỹ đức của 2 vị lệnh quân, có thể thấy được ở anh đấy!” [5]

Ở chức hơn tháng, Úc lấy cớ mẹ mất, dâng trả ấn thụ, đế không đồng ý. Đế sai Thường thị Chu Khôi tuyên dụ chỉ, Úc bèn phụng chiếu tiếp tục giữ chức.

Năm thứ 10 (289), mất. Có chiếu tặng Tư đồ, ban Đông viên bí khí, một bộ triều phục, 50 vạn tiền, 100 xúc vải; sai Ngự sử cầm cờ tiết hộ tang. Đặt thụy là Thành.

Úc có 10 con trai, sử cũ có truyện của Tuân Tập (荀辑), Tuân Phiên (荀藩), Tuân Tổ (荀组). Tập được kế tự.

Kết đảng với Giả Sung

Úc cùng bọn Giả Sung, Tuân Ỷ (con Tuân Văn Nhược), Phùng Đảm kết đảng, cùng bọn Nhiệm Khải, Dữu Thuần bất đồng. Sung muốn giải chức Khải, bèn tiến cử ông ta vào Đông cung, Khải nhân Thốc Phát Thụ Cơ Năng khởi nghĩa, tiến cử Sung trấn giữ vùng Quan Hữu. Tháng 11 ÂL năm Thái Thủy thứ 7 (271), Giả Sung sắp nhận chức, bá quan đưa tiễn ở Tịch Dương đình, Sung hỏi kế nhằm được ở lại triều đình, Úc khuyên ông ta gả con gái cho thái tử, rồi tự nhận trách nhiệm thu xếp việc ấy. Úc nói với Phùng Đảm rằng: “Giả công đi xa, bọn ta thất thế. Hôn sự của thái tử chưa định, nếu giúp con gái Sung làm phi, thì ông ta sẽ được ở lại vậy!” Úc cùng Đảm tìm cơ hội nói với đế rằng: “Con gái của Sung tài sắc tuyệt thế, nếu nạp vào Đông cung, ắt có thể phụ tá quân tử (tức là chồng), có cái đức của hậu phi trong bài ‘quan thư’ (trong kinh Thi)” Sau đó đế lấy con gái Sung là Giả Nam Phong làm Thái tử phi; việc này khiến những người chánh trực đương thời rất căm ghét, mắng bọn Úc là phường siểm nịnh. Vũ đế biết thái tử Tư Mã Trung ngu độn, sợ sau này làm loạn việc nước, sai Úc và Hòa Kiệu đi xem xét. Úc trở về ca ngợi thái tử hiểu biết, nhã nhặn, còn Kiệu nói thái tử vẫn như trước. Đế muốn phế Giả phi, Úc cùng bọn Phùng Đảm can ngăn, nên thôi. Vì thế mọi người quý Kiệu mà ghét Úc, bàn rằng ông là gian thần hại nước, như bọn Tôn Tư, Lưu Phóng đời Tào Ngụy.

Tháng 7 ÂL năm thứ 8 (272), Sung tiến cử Nhiệm Khải làm Lại bộ thượng thư, tức là khiến Khải mất chức Thị trung, không thể ở gần Vũ đế. Úc cùng bọn Sung ra sức nói gièm, nên Khải bị bãi chức về nhà.

Cuối năm Hàm Ninh thứ 2 (276), Dương Hỗ dâng biểu xin đánh Ngô, bọn Úc can rằng không thể. Năm thứ 5 (279), Vương Tuấn, Đỗ Dự nối nhau dâng biểu xin đánh Ngô, Úc cùng Giả Sung cố can, nhưng lần này Vũ đế đồng ý đánh Ngô. Tháng 3 ÂL năm sau, quân Tấn diệt được nước Ngô.

Năm Thái Khang thứ 3 (282), Thái úy Giả Sung mất, khi ấy Tư đồ Lý Dận cũng đã mất, Úc tiến cử những người cùng phe cánh là Dương Diêu, Vệ Quán, Sơn Đào, Vũ đế đều nghe theo.

Vũ đế sủng ái em trai là Tề vương Tư Mã Du, mà Du lại ghét bọn Úc gian tà, nên bọn Úc cùng nhau yêu cầu Du rời kinh sư; Úc nói: “Trăm quan trong ngoài đều hướng lòng về Tề vương, sau này bệ hạ muôn tuổi, Thái tử sẽ không được lập đấy! Bệ hạ hãy thử làm chiếu cho Tề vương về nước, nếu triều thần đều nói không thể, thì lời thần là đúng rồi!” Vũ đế cho là phải. Tháng 12 ÂL năm Thái Khang thứ 3 (282), đế hạ chiếu cho Du trở về phong quốc.

Những thành tựu khác

Sau khi được làm Quang lộc đại phu, Úc nhận chức Chưởng nhạc sự, tu sửa âm luật, cho lưu hành ở đời. Úc từng ở trên đường nghe qua tiếng ngưu đạc [6] của thương nhân nước Triệu, đến nay làm Chưởng nhạc, thấy âm vận chưa điều hòa, bèn nói: “Có ngưu đạc của nước Triệu thì hài hòa ngay!” Bèn hạ lệnh cho quận (quốc) Triệu đưa ngưu đạc đến, quả nhiên như lời ông!

Khi phát hiện cổ văn trúc thư trong mộ cổ ở quận Cấp (280), có chiếu sai Úc biên soạn lại, gọi là Trung kinh, đặt vào Bí thư.[7]

Sau khi nhận chức Bí thư giám, Úc cùng Trung thư lệnh Trương Hoa dựa theo “Biệt lục” của Lưu Hướng, chỉnh lý việc ghi chép thư tịch; đặt ra chức Thư bác sĩ, dạy học trò thư pháp, lấy thư pháp của Chung Do và Hồ Chiêu làm chuẩn mực.